Bài tâm tướng

Ngày đăng: 18-09-2010 | Lượt xem: 2759

Chu tam tuong

 

BÀI TÂM TƯỚNG

(Của TRẦN HI DI TIÊN SANH, do Ngài cố Minh Thiện trích dịch năm 1960)


1. Trần Lão Tổ đặt bài tâm tướng,
Cho biết người, rồi lượng xét mình;
Tâm là gốc của tướng hình,
Xét tâm tự hiểu dữ lành chẳng sai.
 

2. Hình phát động, không ngoài tâm được,
Xem hạnh người, họa phước dễ suy;
Kẻ nào tâm tánh thiên vì,
Khó nuôi con cháu đến kỳ lớn khôn.
 

3. Nghe lời nói nhiều tuồng tráo trở,
Biết là phường quen dở mưu lừa;
Cúi đầu, miệng bỏ nhỏ thưa,
Gặp ai như vậy, phải ngừa tham gian.
 

4. Phơi gan mật giải bàn đích xác,
Hẵn là trang lỗi lạc tài ba;
Thường ngày, khí định tâm hòa,
Đoán sanh con quí, trổ ra cháu hiền.
 

5. Tài chưa vẹn, tánh thiên cố chấp,
Không họa to, cũng gặp kỳ cùng;
Xây lưng, đã vội trở lòng,
Cháu con ắt chịu trùng trùng họa tai.

6. Khi trò chuyện, nhắc hoài bạn cũ,
Sống trăm năm, hưởng thú giàu sang;
Trọng giàu, khi kẻ bần hàn,
Gởi nhờ con vợ, có an bao giờ!
 

7. Kính già cả, lòng ưa mến trẻ;
Rạng tổ tông, phước để cháu con;
Buông lời xúi giục giận hờn,
Làm cho giảm bớt thọ nguơn chẳng vừa.

8. Trả oán nhỏ, ơn xưa bất kể,
Trên bảng vàng, không dễ danh nêu;
Sang giàu chưa mấy đà kiêu,
Tương lai sự nghiệp bấy nhiêu là cùng;

9. Giàu sang cả, lòng không chút động,
Đặng phước lành lớn rộng vô biên;
Con người dối trá, thầm riêng,
Vinh hoa tuy hưởng, đổ nghiêng thình lình.
 

10. Giữ tâm tánh công bình, ngay thẳng,
Dẫu không con, chết đặng làm thần;
Nói hoài: chết sống chẳng cần,
Lâm cơn nguy biến, lánh thân ngoài vòng.
 

11. Gặp những kẻ khoe lòng tri kỷ,
Tình thâm giao rốt chỉ tầm thường;
Việc làm khó nhọc dám đương,
Là người gầy dựng cột rường quốc gia.
 

12. Kẻ ngờ vực, tránh xa mỗi chút,
Chớ tưởng là tâm phúc mà tin;
Ở ăn trái ngược nhơn tình,
Tụng đình gây khổ, lụy mình hại con.
 

13. Đãi người, tỉ ta trong cảnh họ,
Phước lộc nhiều, tuổi thọ cũng cao;
Mê chi sắc đẹp, rượu đào,
Buồng the thê thiếp dàu dàu đợi trông.
 

14. Mặc ai tổn, mình mong lấy lợi,
Con lớn lên chẳng khỏi ngỗ ngang;
Ruộng vườn mua rẻ, người than,
Quyết sau con cháu phá tan gia tài.

15. Người trọng kỉnh ông thầy dạy học,
Định sanh con đầu óc hiền lành;
Kẻ ngu khắc bạc, rủa hành,
Mạng không chết yểu, đời sanh bần cùng.
 

16. Người trí thức nhiêu dung, ít nói,
Hưởng an khương, đặng với gia phong;
Gian nan, giữ được một lòng,
Sách đèn có thuở nên công đãi thần.
 

17. Gặp vui sướng, không cần để ý,
Dẫu tài sơ, toại chí thanh vân;
Cần lao, hà tiện, tợ gần,
Đồng dư tiền của, khác phân hạng người.
 

18. Hoặc giàu lớn, hoặc thời giàu nhỏ,
Xem độ lường, biết rõ hạng nào;
Xa hoa, mỹ lệ sánh nhau,
Cũng đồng xài phí, mặc dầu tánh riêng.
 

19. Đây hoang đãng, đó chuyên nghệ thuật,
Xét trí tài, hiểu chắc tánh chi;
Hẹp suy, đừng tưởng giữ y,
E sau gây họa, khuynh nguy cửa nhà.
 

20. Bòn phước, chớ hiểu là bỏn xẻn,
Mới khinh tài, giữ vẹn nghĩa cao;
Việc dầu lớn, chẳng nôn nao,
Là người đại chí, về sau rỡ ràng.

21. Tùy cơ hội, mở mang thinh thế,
Thì tài cao sớm dễ nên danh;
Có tài, mà dấu nghề lành,
Mình nên cũng khó, kẻ thành không ai.
 

22. Người thấy lỗi, thầm bày nhau sửa,
Gởi thân, luôn nhà cửa, cũng nên;
Tưởng đầy, biết đủ hai bên,
Đàng kiêu họa lớn, đàng khiêm phước dày.
 

23. Dung tài (Vụng về) với đại tài phân biệt,
Kìa dối hư, nọ thiệt sẽ thành;
Tham cao, muốn quấy, gổ ganh,
Rốt rồi khó đặng lợi danh bằng người.
 

24. Lòng trắc ẩn, giúp đời làm ngải,
Rủi lâm nàn, đặng giải khỏi nguy;
Việc ơn, điều oán, chẳng suy,
Mạng căn khó liệu duy trì đặng lâu.
 

25. So mảy mọn tranh nhau từ tấc,
Thôi hết trông nhậm chức lớn lao;
Tánh cang, mưu tính nên mau,
Họa tai trọn giữ làm sao khỏi mình?
 

26. Quá nhu nhược, khó thành việc cả,
Nhưng phước thường, cũng khá hưởng yên;
Cảnh sung suớng, lộ sầu riêng,
Là người cực khổ, truân chuyên mãn đời.
 

27. Đương căm giận, trở cười vui vẻ,
Dẫu tới già, cũng kẻ tà gian;
Có tài mà thích khoe khoang,
Hết mong tiến bước trên đàng công danh.

28. Lỗi kẻ khác, phui phanh bài báng,
Đủ làm cho tổn mạng chẳng chơi;
Dung mình, mà cứ trách người,
Đồng mưu cọng sự, mấy đời vẹn xong.
 

29. Cam chịu lỗi, nhường công kẻ khác,
Năng giúp người giải thoát nạn nguy;
Trong nhà, hiếu để vẹn nghì,
Nối dòng thế phiệt, ai bì trâm anh.
 

30. Đời vui khổ, đồng tình chia sớt,
Sau làm thần, chẳng ngớt khói nhang;
Ý hay chiều chuộng châu toàn,
Biết người đức hậu sửa sang mối giềng.
 

31. Tánh ưa thích xéo xiên kích bát,
Tỏ ra lòng bạc ác, bất lương;
Sắc trên gò má biến thường,
Là người thiểu phước, đoạn trường lao đao.
 

32. Tình giao hảo trước sau một mực,
Ấy bạn lành sẵn đức bao dung;
Với người tranh cạnh buông lung;
Thiếu công bồi đắp, vận cùng khó thông.

33. Khi xảy chuyện, xét lòng mình trước,
Đức đủ đầy, oan khuất dễ minh;
Tuổi xuân, nhẹ tánh phóng tình,
Số thầy Nhan Tử (32 tuổi), trung bình không hơn.
 

34. Thuở trai tráng, muội hôn, liều lĩnh,
Bất hoặc kỳ (40 tuổi), hạn định bỏ mình;
Giận mừng, chẳng kể trọng khinh,
Cả đời đâu có đạt thành việc chi!
 

35. Khen hay trách, không suy phải quấy,
Tình bạn bè bởi đấy tuyệt giao;
Thấy nguy, gấp gãy, trợ nhau,
Rủi nghèo, Trời Đất ban trao phước lành.
 

36. Gỡ rắc rối, thân hành cứu khổ,
Lâm rạc tù, hộ có Thần linh;
Cơ hàn, chớ oán thân sanh,
Tự mình tạo ác, gây thành trái oan.
 

37. Bịnh ôn dịch chẳng can số mạng,
Mắc tội Trời, phải nạn lớn lao;
Người khinh, dạ chịu chẳng nao,
Tự nhiên con cháu xiết bao phát tài.
 

38. Khi rảnh việc, hằng ngày xét lỗi,
Suốt một đời nhàn rỗi yên thân;
Mất còn, chẳng động tâm thần,
Dẫu không sang cả, cũng phần giàu to.
 

39. Lúc mừng giận, chẳng cho lộ sắc,
Đã sống lâu, thêm chắc kiện toàn;
Không chi, sảng sốt, vội vàng,
Tánh người lòn cúi, tính toan hẹp hòi.
 

40. Có tai nạn mà coi tĩnh táo,
Can đảm nhiều, trí xảo, mưu sâu;
Ở đời cư xử cùng nhau,
Một lòng bình đẳng mới hầu an khương.

41. Tu nhơn đức thường thường chẳng mỏi,
Nối năm đời dòng dõi hiển vinh;
Việc đời đủ chứng làm tin,
Cho hay Thiên Đạo minh minh chẳng lầm.
 

Khuyên ai ghi nhớ vào tâm!

Bài viết khác:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *