Bệnh tật từ ý nghĩ mà ra – Nên sống vui, sống khỏe

Ngày đăng: 06-11-2010 | Lượt xem: 2417


BỆNH TẬT TỪ Ý NGHĨ MÀ RA
NÊN SỐNG VUI, SỐNG KHỎE!

Mỗi bộ phận trên cơ thể đều bị ảnh hưởng bởi những ý nghĩ, xúc cảm từ chính bản thân mỗi người. Do vậy, điều chỉnh tình cảm và suy nghĩ hợp lý sẽ giảm được nguy cơ mắc bệnh. 

Bệnh tim thường xuất hiện do thiếu tình yêu, hoặc không cởi mở trong tình cảm. Những người không tin vào tình yêu, hoặc không cho phép mình yêu người khác có khả năng mắc các bệnh về tim mạch rất cao. Do vậy, sự tiếp xúc với những tình cảm chuẩn mực và lắng nghe tiếng nói con tim sẽ làm giảm quá trình mắc bệnh tim, có thể khỏi bệnh theo thời gian.
 
Bệnh viêm khớp thường tấn công những người luôn nói “không” và kết tội người khác rằng họ đang bóc lột mình.
 
Bệnh huyết áp cao thường xuất hiện do quá tự tin vào khả năng của mình. Vì thế họ nhận những việc quá sức mình, lao động thiếu nghỉ ngơi, luôn muốn xứng đáng với sự trông chờ của mọi người. Họ muốn mọi người phải tôn trọng và cho rằng mình đóng vai trò quan trọng.

Chán nản, thất vọng về những thất bại trong cuộc sống và theo chủ nghĩa nghĩa phê phán thường dẫn đến các vấn đề về thận. Những người này luôn cho rằng họ bị lừa dối và bị chà đạp. 

Bệnh hen suyễn và các vấn đề về phổi thường xuất hiện do không biết cách sống tự lập.
 
Các bệnh về dạ dày xuất hiện do hậu quả của những xúc động mạnh trong quá khứ, không có mong muốn giải tỏa những suy nghĩ của mình và cũng không muốn có trách nhiệm với hiện tại. Dạ dày rất nhạy cảm với sự sợ hãi, ghen tị, đấu tranh và căm ghét. Việc kìm nén tình cảm, cố gắng quên chúng là nguyên nhân của chứng rối loạn dạ dày. Sự thù địch là nguyên nhân của chứng đau rát thực quản.
 
Các bệnh về mắt xuất hiện là do con người không muốn nhìn mọi thứ xung quanh, không muốn tiếp nhận nó như nó vốn có. Tương tự, các bệnh về tai, như nghễng ngãng, điếc… sẽ xuất hiện khi bạn không muốn nghe những gì đang xảy ra xung quanh.

Sự giận dữ, bực tức, hằn học là nguyên nhân của các bệnh truyền nhiễm (nhiễm trùng).

Béo phì xuất hiện do khuynh hướng muốn bảo vệ mình khỏi điều gì đó. Cảm giác trống rỗng bên trong thường gây ra sự thèm ăn. Quá trình hấp thụ thức ăn đảm bảo cho họ cảm giác được sở hữu, hoặc có thành quả với cái gì đó. Tuy nhiên, sự thiếu hụt trong tâm hồn lại không thể “đắp đầy” bằng thức ăn.

Không thể tự quyết định, sợ phải đưa ra quyết định cuối cùng, sợ đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống là nguyên nhân của những bệnh về răng miệng.

Các vấn đề rắc rối với lưng có thể là kết quả của quá trình cố gắng quá mức, yêu cầu ở bản thân quá cao và thiếu sự giúp đỡ của người khác.
 
Mất ngủ là do muốn trốn chạy khỏi cuộc sống, không muốn nhìn thấy những mặt tiêu cực của cuộc sống. Cần phải tìm một nguyên nhân thực sự của sự bất an này, học cách tổng kết lại những gì xảy ra hằng ngày, quay lại cuộc sống thường ngày, không ngủ vào buổi chiều… Tất cả những điều đó có thế giúp bạn không bị mất ngủ.
 
Chứng táo bón thường xuất hiện ở những người có tình cảm quá lớn và những xúc động mạnh. Họ không thể, cũng như không muốn rời bỏ một nơi nào đó để đến một nơi mới hơn.

Theo Dân Trí 

Y HỌC TRONG TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO

Người Việt thường hay nói: “Ăn được ngủ được là tiên, không ăn không ngủ mất tiền thêm lo”. Câu ca dao tuy đơn sơ nhưng hàm súc cả trí tuệ sống của bao thế hệ từ ngàn xưa. 

Loài người bước sang thế kỷ 21 với những tiến bộ vượt bực không ngừng của khoa học, kỹ thuật đã cải thiện rất nhiều về đời sống tiện nghi vật chất cho con người. Nhưng không hẳn ai nấy đều “ăn được ngủ được”, cho dù la liệt đủ loại thức ăn, thức uống bày ra khắp mọi nhà hàng, thêm vào sống giữa thời đại “fast food” có ngay, ăn ngay thử hỏi có bao nhiêu người để ý đến những cái gì nên ăn và những cái gì không nên ăn. Không những thế thường trực căng thẳng vì phải chạy đua với những thay đổi ào ạt của xã hội, vật lộn với đời sống vật chất, do đó không ít người mắc chứng bệnh thiếu ngủ, bệnh mất ngủ (insomnia) và nhiều chứng bệnh khác nữa. Có lẽ giấc ngủ hồn nhiên không mộng mị phải dành cho trẻ thơ hay những người không còn bị ràng buộc, cám dỗ bởi vật chất của thế gian này không chừng. Phải chăng để “thành tiên” vẫn còn là giấc mơ của con người hiện đại? Trong phạm vi giới hạn bài viết mạo muội phác họa qua nhãn quan nhà Phật nhìn thế nào về nguyên nhân bệnh trạng cũng như đưa ra cách chữa trị mang lại sức khỏe con người.

Sự sống cũng như sự chết là việc lớn, hệ trọng của kiếp nhân sinh và cũng từ thuở tạo thiên lập địa từ khi có con người trên hành tinh trái đất, để sinh tồn con người phải đối phó với những đe dọa thường xuyên từ bên ngoài như thiên tai, bão tố, động đất, thời tiết, dã thú, v.v… Song song với đó con người cũng phải luôn luôn trực diện với ốm đau, bệnh tật phát sinh từ bên trong cơ thể. Đây là một trong bốn cửa ải đoạn trường của kiếp nhân sinh Sinh, Lão, Bệnh, Tử mà bất cứ ai trong chúng ta dù già, trẻ, lớn, bé đều phải trải qua. Đời sống xã hội loài người càng tiến bộ về khoa học, nhiều sáng tạo y học ra đời một số những bệnh được xem như nan y thuở xưa như bệnh đậu mùa, bệnh bại liệt thì nay không còn nữa, nhưng đồng thời nhiều bệnh trạng mới khác lại nảy sinh như các chứng bệnh ung thư, bệnh AIDS, bệnh mất trí nhớ (Alzheimer) mà vẫn chưa có phương thuốc chữa trị hoàn hảo. Vì thế làm sao có được thân thể khỏe mạnh không ốm đau với tâm hồn an nhiên thư thái, giấc ngủ ngon vẫn là vấn đề quan trọng cần thiết của đời sống con người.

Cách đây hơn 2500 năm một nhà tôn giáo, nhà tư tưởng siêu việt, nhà Tâm Lý Học, nhà Thiên Văn Học, nhà Xã Hội Học và cũng là nhà Y-sĩ đại tài vượt thời gian, không gian đã nhìn thấy vấn đề, gốc rễ, nguyên nhân sinh ra bệnh tật, và cũng đã đưa ra một toa thuốc để giúp con người vượt qua những đau khổ do bệnh sinh ra, xây dựng một đời sống lành mạnh, một thân thể kiện khang, yêu đời, tràn ngập sức sống, một xã hội an vui. Phải chăng đây cũng là mục đích sống con người trên hoàn vũ hằng mong muốn và cũng chỉ chính con người là chủ thể sáng tạo tạo dựng điều này không ai khác.
 
Vậy thì bệnh từ đâu mà đến? Theo Phật giáo bệnh phần lớn phát sinh từ bên trong con người do mất cân bằng hài hòa về tinh thần, tình cảm, dinh dưỡng, có nghĩa do thân và tâm sinh ra hơn là do từ bên ngoài mang đến. “Chẳng hạn có người uống thuốc mong đổ mồ hôi nhưng không có hiệu quả. Thế mà khi sợ hãi âu lo thì mồ hôi tuôn ra, phải chăng là do tâm, do suy tư tác động gây ra. Không có thí dụ nào rõ ràng hơn câu chuyện ngày xưa ở bên Trung Quốc đời nhà Minh có ông Vi Đản người viết chữ rất giỏi thế mà vì phải theo lệnh nhà vua leo lên đỉnh đài Lăng Vân để khắc chữ, vì quá sợ viết xong lúc xuống mặt đất tóc đã bạc phơ.” 

Một cách tổng quát theo Phật giáo có ba loại bệnh đó là:
1. Thân bệnh.
2. Tâm bệnh.
3. Nghiệp bệnh.

Từ cách nhìn như nêu trên cho thấy cách chẩn bệnh và chữa trị của Phật giáo khác biệt với y học tây phương ở điểm y học tây phương đưa ra thuốc chữa khi nào bệnh phát ra, có triệu chứng đau yếu bộ phận nào đó trên cơ thể và cho dù có đề cập đến việc phòng bệnh. Khi ấy thuốc chỉ có tác dụng làm bớt đi tình trạng đau đớn, chặn đứng phần nào sự lộng hành của vi khuẩn trong khoảng thời gian nào đó mà thôi, chứ nó không diệt hết căn nguyên, nguồn gốc sinh bệnh. Một phần bệnh nhân có tâm lý là muốn mau hết bệnh ngay, nhưng ít khi chịu tìm hiểu nguyên nhân sinh ra bệnh. Bởi vì bệnh phát sinh ra không phải một sớm một chiều mà do quá trình dài qua bao năm tháng rồi mới hình thành. Do đó không có triệu chứng không hẳn là không có bệnh.

Hơn nữa y học tây phương phần lớn dựa vào những cái gì cụ thể, chẳng hạn như hình ảnh do tia quang tuyến, những rọi chiếu qua các bộ máy y khoa chụp được. Nền y khoa hiện đại đổ dồn rất nhiều công sức trí tuệ, tài chánh vào trong những lãnh vực nghiên cứu như bệnh lý học, Dược phẩm học, Đề kháng học và Giải Phẫu Học cùng những dụng cụ y khoa hiện đại, tối tân trong mục đích tìm ra căn nguyên bệnh tật. Nhưng có điều lạ nhiều máy móc tối tân phát minh ra đời, nhiều loại thuốc tinh vi mắc tiền được điều chế ở những công ty dược phẩm nổi tiếng, thế mà số bệnh nhân không giảm thiểu, mà còn có chiều hướng gia tăng. Lý do tại sao? Phải chăng có những căn bệnh mà dụng cụ y khoa hiện đại vẫn không thể nhìn thấy được. Phải chăng nền y học hiện đại quá chú trọng vào triệu chứng, vào phần thân thể, mà quên đi phần tâm bệnh và nghiệp bệnh, quên đi hay xem nhẹ nguồn gốc sâu xa tạo ra bệnh tật nằm ngay trong tâm tư đời sống con người. Bệnh phát sinh từ nghiệp chướng từ lối nghĩ, cách tư duy, từ cách sống, lời nói, việc làm v.v… Có nghĩa thân, khẩu, ý chưa được thanh tịnh.

Đây cũng là vấn đề mang tính chất thời đại một số nhà thức giả phương tây đã đang cố thử tìm tòi tính chất tương quan giữa niềm tin tôn giáo và sức khỏe.

Thân Bệnh:

Đối với Phật giáo người đi tầm đạo hay hành giả việc quan trọng trước hết là để ý đến thân thể “rèn luyện, thận trọng chăm lo thân thể là điều căn bản trong việc tu hành Phật đạo. Hơn hết tất cả những gì khác, bước đầu tiên mang tính chất quyết định giải phóng chúng ta, đó là thoát ra khỏi ảo tưởng về bản ngã, đoạn tuyệt những cái quá si mê, quá yêu thương bản thân, chấp trước vào thân thể, và phải luôn luôn để ý đến thân thể”. Nói cách khác, thường trực quan sát để ý thân thể đừng để cho có bệnh hoạn là điều tối ư quan trọng của người tu hành, vì chính xác thân là phương tiện duy nhất để đi đến giác ngộ.

Theo Phật giáo cơ thể con người nói riêng và toàn thể thiên nhiên vũ trụ do tứ đại (Địa, Thủy, Hỏa, Phong) có nghĩa do đất, nước, gió và lửa kết hợp thành. Mỗi thành tố mang ý nghĩa đặc biệt và có tương quan với những bộ phận trong thân thể. Chúng ta hãy đi lượt qua tính chất mỗi thành tố này.
1. Thành tố đất mang đặc tính nặng, có trọng lượng gồm có các bộ phận như Não bộ, lá lách, bao tử. Khi thành tố này mất cân bằng sẽ sinh ra bệnh làm thân thể trở nên khô gầy, có đến 101 loại bệnh thuộc thành tố này.
2. Thành tố nước có đặc tính ẩm ướt, mang trạng thái lưu động, gồm có các cơ quan như thận, bàng quang và máu huyết. Khi cơ quan này mất cân bằng làm cho việc ăn uống không tiêu, việc tiêu hóa khó khăn, thì có thể sinh ra 101 loại bệnh.
3. Thành tố hỏa mang tính chất nóng, dùng để đốt cháy, có nhiệt độ cao, biểu tượng cho hệ thống vận chuyển máu, gồm có các cơ quan như gan và túi mật, mất cân bằng thành tố này hay sinh táo bón, lạnh nóng bất thường, hay đau khớp xương có thể sinh ra 101 loại bệnh.
4. Thành tố khí có đặc tính nhẹ như không khí, biểu tượng cho hệ thống hô hấp, và đây cũng chính là chiếc xe đưa trạng thái Tâm di động. Thành tố này chủ yếu hoạt động ở tim, phổi, ruột và hệ thống não bộ. Thành tố này mất cân bằng sẽ sinh ra 101 loại bệnh. Khí có chức năng tạo năng lượng di động khắp toàn thân, giúp cho máu vận chuyển điều hòa, duy trì sự sống hấp thụ chất dinh dưỡng tiêu hóa thức ăn đào thải chất độc ra ngoài, chuyển hoán tế bào, và giúp cho sự cảm nhận được trong sáng.

Chính vì những đặc tính nêu trên, một khi sự vận chuyển bốn thành tố không còn điều hòa khi có đó triệu chứng bệnh.

Nếu đi sâu vào phân tích bệnh trạng triệu chứng thân bệnh chắc hẳn cần nhiều giấy mực hơn nữa, ở đây xin chỉ lượt qua một số điểm quan trọng.
Thân bệnh phát sinh là do tích lũy những chất độc bao gồm ý nghĩa tinh thần là tham, sân, si và ý nghĩa vật thể là đem vào trong cơ thể những thức ăn hằng ngày không tốt cho cơ thể mà chúng ta không biết hay không để ý vì do tập quán hay thói quen. Rồi theo dòng thời gian những chất độc này không được đào thải hết ra ngoài tích lũy lại trong người và khi đó bệnh hình thành. Có câu hỏi được đặt ra tại sao những chất độc đó không tạo thành một loại bệnh? Câu trả lời là cơ thể mỗi con người chúng ta không ai giống ai, có người yếu về bộ phận này nhưng lại mạnh về bộ phận khác, một phần do yếu tố di truyền (genetic) từ cha mẹ truyền lại. Chất độc tụ lại trong người chỉ sinh bệnh khi nó vượt quá giới hạn nào đó mà cơ thể không còn chịu đựng được nữa mà thôi, cũng vì thế mà có người sinh ra bệnh về tim, về thận, về ruột vân vân và vân vân.
Do đó một khi chúng ta nhận chân thấy được nguyên nhân thân bệnh là do thiếu vận động, cẩu thả, bừa bãi trong việc ăn uống hằng ngày, đó là dấu hiệu tốt trong việc cải tố cách dinh dưỡng, ẩm thực. 

Tâm Bệnh:
Theo Phật giáo “Bệnh hoạn nơi tâm hồn chúng ta phần lớn là do thói quen ôm vào những cái không phải của chính mình như của chính mình. Bản tính con người chúng ta hay giành lấy những gì có thể nhìn thấy hay sờ mó được trên thế gian này. Từ những vật gọi là “của tôi” đi kèm theo nó là những trói buộc, từ đó con người dần dần xa rời bản ngã chân thực, thay vào đó con người phải trả cái giá cho nó là mang tâm trạng sợ hãi lo âu.”.

Khi nói đến tâm bệnh thì không thể nào không đề cập đến ba thứ độc hại tham, sân, si là những thứ luôn luôn tiềm ẩn trong con người chúng ta. Vậy thì những điều này gây ảnh hưởng như thế nào đến sức khỏe cũng như bệnh tật. Chúng ta hãy thử tìm hiểu từng yếu tố một.
 
Tham
Theo ý nghĩa tinh thần cũng như vật chất tham là trạng thái ham muốn thật nhiều vượt ra ngoài khả năng cũng như nhu cầu cần thiết. Chẳng hạn như ăn quá nhiều cũng có khả năng sinh bệnh. Đối với những người hay ăn và uống những thức ăn ngọt có nhiều đường rất dễ sinh ra bệnh tiểu đường hay ăn nhiều quá mà không vận động, tập thể thao cũng dễ sinh bệnh mập phì. Ngoài yếu tố lấy vào trong thân thể quá độ nguồn năng lượng, chất ngọt, người ta còn tìm thấy những người có nhiều ưu phiền, đau khổ tinh thần, căng thẳng quá độ về công việc, đời sống gia đình v.v… cũng dễ sinh ra bệnh này, không kể đến yếu tố di truyền. Thêm vào đó mối ưu tư về tài chính do tiêu xài hoang phí quá độ chồng chất theo năm tháng cũng dễ sinh ra bệnh.

Ngay như về mặt tri thức, người quá tham lam muốn nhồi nhét thật nhiều kiến thức, sự hiểu biết vào trong đầu trong khoảng thời gian ngắn cũng dễ sinh ra bệnh tâm thần. Với những người còn quá trẻ tu thiền chỉ đọc qua vài quyển sách, một số lý thuyết muốn thực hành để chứng ngộ ngay chưa hiểu rõ thấu đáo về ngay chính bản thân cũng rất dễ sinh tẩu hỏa nhập ma rồi đưa đến hủy hoại thân thể.

Ngoài ra chúng ta còn thấy những người sống buông thả chạy theo cảm xúc của ngũ quan một cách quá đáng cũng dễ sinh bệnh. Theo Phật giáo người quá đam mê vào hình tướng dễ sinh ra bệnh về gan, quá đam mê vào âm thanh dễ sinh bệnh về thận, quá đam mê vào mùi vị dễ sinh bệnh phổi, quá đam mê vào khẩu vị dễ sinh bệnh về tim và quá đam mê vào xúc giác dễ sinh bệnh thuộc về lá lách.

Vì thế cân bằng trong đời sống không quá độ cả về tinh thần lẫn vật chất là điều quan trọng trong tu hành theo Phật giáo.
 
Sân
Sân là trạng thái căm hận, ghét cay ghét đắng, giận dữ một trong những yếu tố gây tác động không nhỏ đến sức khỏe, nhất là cơ năng thuộc về tim và gan. Trong kinh Đại Bát Nhã (Mahaprajnaparamita) giảng rằng “sân hận là trạng thái cảm xúc độc hại nhất so với tham lam và ngu si”. Sự giận dữ gây tác hại vượt lên trên mọi tác hại khác. Theo kinh Đại Bát Nhã trong số 98 đau đớn gây ra, giận dữ là trạng thái khó chế ngự nhất. Về mặt tâm lý giận dữ cũng là tâm trạng khó chữa trị nhất.
Theo bệnh lý học người khi nổi giận sẽ tác động vào hệ thần kinh não, tạo mạch máu co cứng lại, đưa áp xuất máu tăng cao, từ đó dễ làm tim ngừng đập bất thình lình. Trạng thái giận dữ có thể phát xuất từ nhiều nguyên nhân như đời sống quá căng thẳng, cô đơn, ưu phiền, tâm trạng thù địch, gặp nhiều điều không vừa ý, nhìn cuộc đời với tâm trạng chán chường v.v… Cộng vào đó với tình trạng thiếu cân bằng dinh dưỡng, ăn quá nhiều chất béo, ít vận động cũng dễ gây bệnh tim.
Theo y học Đông phương nóng giận không chỉ gây tác động đến tim còn ảnh hưởng xấu đến gan, bộ phận thuộc về tạng và mật thuộc về phủ. Chính vì thế trong ngôn ngữ Việt có câu “giận bầm gan tím ruột” có ý như thế không chừng.
 
Si
Về mặt chiết tự theo Hán ngữ, chữ Si thuộc về bộ Nạch có nghĩa tật bệnh, kèm theo với chữ “nghi” có nghĩa là ngờ, lòng còn bán tín bán nghi chưa tin và theo Anh ngữ dịch là ignorance. Như vậy Si là trạng thái bệnh hoạn thuộc về trí não, ở trong điều kiện chưa hiểu thấu đáo, rốt ráo dễ rơi vào tâm trạng nghi ngờ, với trong hoàn cảnh nào đó cũng có nghĩa là ngu dốt. Danh từ này thường hay dùng trong Phật giáo có nghĩa trạng thái u mê, không sáng suốt. Khi con người rơi vào tình trạng đau ốm thì lại càng thiếu minh mẫn, và không nhìn thấy căn nguyên của bệnh tật, vả lại tâm lý người bệnh có khuynh hướng tìm phương cách chữa trị theo cách “mì ăn liền”, có nghĩa làm sao hết đau, hết bệnh ngay. Từ đó dễ đưa đến hành động nông nổi có hậu quả xấu cho sức khỏe.

Nhân đây cũng nói qua về chủ trương tu thân của nho gia, người muốn tu thân phải làm cho tâm ngay thẳng, muốn cho tâm ngay thẳng cần phải có Ý cho Thành, muốn cho Ý thành cần phải Trí Tri tức phải hiểu biết tường tận, muốn hiểu biết tường tận cần phải tìm rõ nguồn cội sự vật. Đây cũng là phương pháp để thoát ra khỏi trạng thái Si.

Nền y học hiện đại có khuynh hướng chú trọng vào cách chữa trị những đau đớn về thể xác, giải phẫu, thay ráp tim, thận v.v…, điều chỉnh các cơ năng dường như mang tính chất sửa chữa một bộ phận nào đó trong một cỗ máy phức tạp, mà coi nhẹ căn bệnh có tính chất tâm lý, tình cảm hay tinh thần, thiếu cái nhìn toàn diện. Cả hai đều đóng vai trò quan trọng, tác dụng hỗ tương lẫn nhau. 

Các nhà Y khoa đều công nhận rằng trạng thái nóng giận, buồn bã, quá vui, quá buồn đều có tác dụng không tốt cho sức khỏe của thân thể. Theo những nghiên cứu y học cho thấy những người ở trong tình trạng giận, buồn, không vui hay căng thẳng quá độ, não bộ tiết ra chất hormones gọi là độc tố adrenaline, nếu không là adrenaline đi nữa cũng là những độc tố có hại cho cơ thể. Do đó tình trạng mất thăng bằng về tình cảm kéo dài sẽ gây ra tai họa cho cơ thể, đưa đến tình trạng càng thêm khó khăn cho việc chữa trị. Trong khi đó cũng theo kết quả nghiên cứu khoa học, những người ngồi thiền định, hay trong trạng thái thư thái, tập trung tư tưởng hệ thống não bộ tiết ra chất hóa học giúp cho tâm hồn thật sự an bình, không còn căng thẳng, tiêu cực .
 
Nghiệp Bệnh
Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa đích thực của nghiệp là gì? Nghiệp được dịch sang từ tiếng Phạn gọi là karma, có ý nghĩa hành vi, tư tưởng của mỗi cá nhân, từng con người trong tiền kiếp và hiện tại, từ đó hình thành con người ngày hôm nay. Người Việt thường hay nói “gieo gió gặt bão” hay là “nhân nào quả đó” phản ảnh phần nào quan niệm về “nghiệp”. Trong tác phẩm “Chánh Pháp Nhãn Tàng” có câu kệ sau:


CHƯ ÁC MẠC TÁC
CHÚNG THIỆN PHỤNG HÀNH
TỊNH TƯ KÌ Ý
THỊ CHƯ PHẬT PHÁP
***
Đừng làm điều ác
Hãy làm điều lành
Giữ Tâm, Ý thanh tịnh
Đó là lời dạy của Phật

Với những lời kệ đơn giản vừa hàm ý khuyên bảo vừa nói lên điểm quan trọng trong việc hình thành nhân cách, và cũng có thể gọi là nghiệp của mỗi con người là ý tưởng. Điều gì mang tính chất quyết định hình thành con người? Đó chính là thân, khẩu và ý. Đơn cử thí dụ, có người bày đặt chuyện dối trá người khác. Nếu như câu chuyện không thật đó không gây tổn thương đến người nghe thì cũng được đi, nhưng người nảy ra ý tưởng, và nói điều đó ra đã tạo “nghiệp” cho chính bản thân, và đó cũng là nguồn gốc hình thành nhân cách. Nhưng nếu câu chuyện không thật đó gây tổn thương về mặt tinh thần hay vật chất đến người nghe, chắc hẳn hành vi này hay “nghiệp” đã tác động không chỉ bản thân người nói mà còn đến người nghe nữa. Nếu như mẫu chuyện đó tiếp tục ám ảnh cả người nói lẫn người nghe, có nghĩa do từ ý nghiệp đưa đến khẩu nghiệp đã tác động đến thân, và đó cũng là nguồn gốc của bệnh.

Trong “Chỉ Quán Tọa Thiền” có viết “Nếu nghiệp tội là sát sanh thì gan và mắt bệnh. Nếu nghiệp tội do uống rượu thì tim và miệng bệnh. Nếu nghiệp tội là dâm dục thì thận và tai bệnh. Nếu nghiệp tội nói dối thì lá lách và lưỡi bệnh. Nếu nghiệp tội là trộm cắp thì phổi và mũi bệnh.”.

Điều này nói lên tính chất tương quan mật thiết không thể nào tách rời giữa thân, khẩu và ý.
Trong ba thành tố hình thành con người, thành tố ý là chủ đạo, là nguồn gốc để đưa đến lời nói, và sau đó là việc làm. Đức Phật cũng nêu thêm về yếu tố cha mẹ, tổ tiên, ẩm thực tức dinh dưỡng và tri thức.

Về yếu tố phụ mẫu, vì có cha có mẹ thì mới có chúng ta, đây cũng là cái ân cần phải báo đáp. Ngoài cái ân ra có những cái thừa hưởng từ cha mẹ, nói cách khác đó là yếu tố di truyền. Yếu tố này vượt ra ngoài tầm tay, khả năng, ý chí tự do lựa chọn của mỗi người, nó mang tính chất thụ động trong việc tạo dựng nhân cách cũng như nghiệp.

Khi nói đến ý thức là phải nói đến ngũ uẩn tức mắt, tai, mũi, miệng và cảm giác, có nghĩa chúng ta đã nhìn thấy cái gì, nghe điều gì, ngửi mùi gì v.v… những cảm giác này gây thành ý thức và cũng từ đó tác động đến yếu tố tạo thành con người. Khái niệm hình thành con người ngoài những yếu tố trên, còn có thêm tính chất ý chí tự do trong cuộc sống và kèm theo đó con người bị chi phối bởi quy luật nhân duyên, vô thường, vô ngã và nhân quả.

Trong Kinh Pháp Cú có nói:

“Làm điều ác tự chính bạn trở lên ô uế
Không làm điều ác, tự chính bạn trở lên thanh tịnh”.

Tự mỗi người chúng ta làm cho chính chúng ta trở lên thanh tịnh, hay trở thành ô uế. Không ai có thể làm người khác trở nên thanh tịnh.

Từ câu kinh trên cho thấy bệnh tật là do tự chính mỗi người chúng ta tạo thành chứ không ai khác, có thể do túc nghiệp hành vi trong quá khứ, hay trong hiện tại. Khi hiểu được nguyên nhân rồi, thì câu hỏi đặt ra là làm sao chữa trị căn bệnh.
 
Tái Tạo Nguồn Sinh Lực
Bệnh tật sinh ra gồm nhiều yếu tố tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe thân thể, cách tư duy, lối sống, tập quán, nơi sinh sống, môi trường xung quanh và còn phải kể thêm đời sống tâm linh, yếu tố di truyền, ẩm thực cũng như văn hóa xã hội đang sống. Khi những yếu tố nội ngoại mất cân bằng, mọi tình trạng quá độ, cuộc sống quá căng thẳng, âu lo cũng là nguyên nhân sinh ra bệnh. Do đó chúng ta cần biết điều hòa, cân bằng những điều nêu trên, nhìn một cách toàn diện tâm và thân, kèm theo phương pháp tu tập như thiền định, điều tức hằng ngày, dinh dưỡng đúng đắn sẽ giúp phòng ngừa bệnh tật, có cơ thể khỏe mạnh, đời sống lành mạnh, vui tươi.

Làm thế nào để có thể điều hòa những yếu tố bên ngoài với mọi bộ phận bên trong cơ thể là cơ cấu cực kỳ tinh vi, phức tạp không khác gì tiểu vũ trụ. Chẳng hạn tổng số chiều dài những mạch máu trong cơ thể là 96 ngàn triệu kilometers, có nghĩa dài gấp hai lần chu vi quả địa cầu. Điều này cho thấy cơ thể con người chúng ta cực kỳ vi diệu mọi bộ phận từ bé cho đến lớn liên hệ chằng chịt lẫn nhau vượt ra ngoài sức tưởng tượng bình thường. Chính vì lý do này hẳn nhiên phải có quy luật tự nhiên về sự sống để phối hợp điều hành mọi cơ quan những vận chuyển trong lẫn ngoài cơ thể.

Chúng ta tạm gọi quy luật tự nhiên đó là “sức sống” hay “sức sinh tồn”, người Ấn Độ gọi là Prana, người Hy Lạp gọi là Pneuma, người Nhật Bản gọi là Ki, người Trung Hoa gọi là Chi, và người Việt gọi là Khí. Nguồn “sức sống” này di động đi khắp toàn thân, mọi mạch máu, mọi tế bào của mọi bộ phận cung cấp dinh dưỡng, bảo vệ sự sinh tồn, tạo thành nguồn năng lực cho sự sống, và theo đó nó toát hiện ra bên ngoài thân thể trên bộ mặt, làn da v.v… Về mặt tinh thần sức sống mạnh làm nảy nở những đức tính như can đảm, hy vọng, vị tha kèm theo lý tưởng có mục đích trong đời sống. Do tính chất quan trọng của “khí” trong sự sống mà trong y học Đông phương có nói: “Huyết giống như nước, khí giống như gió, nước di động là do sức đẩy của gió, huyết vận chuyển là do khí dẫn đi”. Quả đúng như thế, máu có vận chuyển điều hòa được hay không là nhờ vào hồng huyết cầu có cùng với oxygen từ phổi di động đến các tế bào một cách trôi chảy hay không. Đây là một chu kỳ tuần hoàn liên tục mãi mãi không ngừng nghỉ của Khí cũng có thể nói là dòng sinh mệnh.

Để cụ thể làm thế nào nguồn năng lực này sinh động điều hòa, Phật giáo đưa ra một số phương pháp tái lập cân bằng thân tâm, dinh dưỡng được xem như những liều thuốc chữa trị trong mọi hoàn cảnh đời sống.
 

Phật giáo rất chú trọng đến ẩm thực vì nó là nhu cầu cần thiết hằng ngày để nuôi dưỡng thân thể, thanh tịnh hóa thân xác, và đó cũng là yếu tố quan trọng hình thành con người, và cũng bởi vì chỉ có thân thể kiện khang mới có đời sống hữu ích giúp người, giúp đời. 

I. Dinh Dưỡng:
Thứ nhất phương pháp dinh dưỡng, người xưa thường nói:
“Tai họa do lời nói sinh ra, bệnh tật do thức ăn mang từ mồm vào.” Hay trong kinh cũng có viết: “Khi ăn chúng ta phải tâm niệm thức ăn như những liều thuốc. Đừng ăn nhiều quá hay ít quá đều không tốt cho sức khỏe. Với lượng ăn tiết độ đủ để nuôi dưỡng thân thể, đừng để đói, đừng để khát sẽ tránh được bệnh tật.”. Người phương Tây cũng hay nói: “Tùy theo những gì bạn ăn, bạn sẽ là như thế” (you are what you eat). Do đó cả đông lẫn tây đều công nhận chất dinh dưỡng trong thức ăn đóng vai trò quan trọng tạo đời sống khỏe mạnh và trường thọ. Theo Phật giáo để có thân thanh tịnh, chúng ta nên ăn nhiều thực vật bao gồm ngũ cốc, rau, trái cây, bớt đi chất thịt động vật.
 
Nhân đây đơn cử vài lợi ích của việc ăn nhiều chất rau đã được khoa học thực chứng, theo kết quả nghiên cứu của Đại Học UCLA, những người thường ăn rau, ngũ cốc lượng nguyên tố Serotonin (5-hydraxytryptamine) tiết ra từ não bộ nhiều hơn những người ít hay không ăn rau, trái cây, và nguyên tố này giúp cho tinh thần lạc quan, ít lo lắng, không rối loạn và thư thái. Khi lượng nguyên tố này xuống thấp sẽ khiến con người hay dễ thất vọng, chán nản, buồn rầu.

Ngoài ra theo kết quả nghiên cứu của tạp chí The New England Journal of Medicine cho biết chất rau hay những chất xơ (fiber) có tác dụng giảm, loại trừ chất estrogen trong người phụ nữ giảm thiểu khả năng bị ung thư vú. Với chất rau (phytoestrogens) nhất là cà chua giúp chống lại ung thư nhiếp hộ tuyến ở nam giới. Đặc biệt loại rau súp lơ xanh (Brocolli) có chất hóa học gọi là sulforanphane mang tác dụng tống những chất độc trong máu và tế bào ra ngoài. Riêng đối với bệnh mất trí nhớ hiện nay chưa có loại thuốc nào chữa trị. Do đó có một số người đề nghị để tránh rơi vào bệnh này nên đổi cách dinh dưỡng bằng cách giảm lượng ăn thịt và những sản phẩm liên hệ đến thịt, thay vào đó là đồ biển như cá, rau, thực vật, trái cây.
 
Hơn nữa thực phẩm dựa vào ngũ cốc, rau, trái cây ngoài việc giúp cho sự tiêu hóa dễ dàng, còn giúp chống lại tình trạng oxidant các phân tử trong tế bào, có nghĩa làm trẻ ra và sống lâu.

II. Luyện Thân Tâm:
Thứ hai là phương pháp tu dưỡng tinh thần, có nghĩa tu học Phật pháp, giáo lý giúp cho tư tưởng, ý nghĩ được thanh tịnh. Chúng ta có thể thâu tóm trong tinh thần Lục Ba La Mật gồm có Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tiến, Thiền Định và Trí Tuệ.
(1) Hạnh Bố Thí: nuôi dưỡng tình thương nghĩ đến người không may mắn, xấu số. Với đức tính này sẽ giúp và chữa trị cho lòng tham.
(2) Ngũ giới: Những người tu tại gia có một số giới luật căn bản như không nói dối, không trộm cắp, không tà dâm, không sát sinh, không uống rượu. Nếu chúng ta tâm niệm duy trì những giới luật này trong đời sống hằng ngày sẽ chữa trị căn bệnh phạm pháp, cộng đồng, xã hội trở lên tốt đẹp và tâm hồn trở lên thanh tịnh. Hơn nữa người tu tập Phật giáo phải thường xuyên “suy ngẫm về thân thể mình, từ gót chân đi lên trên, từ tóc trên đầu đi xuống dưới, với lớp da bọc lấy thân thể đầy rẫy những vật ô uế. Trong thân xác này gồm có: Tóc trên đầu, lông trên thân thể, móng tay, răng, da, bắp thịt, khớp xương, tủy, thân; tim, gan, màng huyết thanh, lá lách, phổi; Ruột, màng ruột, bao tử, vật bài tiết, óc; Nước mật, dịch vị, máu mỡ, chất béo.” Phương pháp quán tưởng này giúp chúng ta thấy cần phải tẩy uế, thanh tịnh hóa xác thân tránh xa những ý tưởng có hại cho sức khỏe.
(3) Hạnh nhẫn nhục: phát triển đức tính khiêm cung, nhã nhặn, khai mở lòng bao dung tha thứ từ đó diệt trừ căn bệnh hận thù, từ đó giúp rất nhiều cho bộ phận gan.
(4) Hạnh thiền định: quán tưởng được lý vô thường, mọi sự vật là Không, chữa trị tâm hồn bất an, dao động, sẽ cảm thấy những cảm xúc tạo ra bởi ngũ uẩn là không thực. Thiền định trong thế tĩnh giúp tăng cường sức khỏe đưa khí trời trong sạch (oxygen) vào trong người đồng thời đưa những chất thán khí (carbon dioxide) theo hơi thở ra ngoài. Ngoài ra chúng ta có thể thiền định trong thế động như Thái Cực Thiền Dưỡng Sinh vận động toàn thân.
(5) Hạnh tinh tấn: giúp hành giả nhủ lòng cái học cái biết ngày hôm nay có thể sẽ lỗi thời không còn phù hợp cần phải thay đổi, chữa trị căn bệnh lười biếng, nỗ lực học tập tinh tấn không ngừng, làm việc giúp người.
(6) Hạnh trí tuệ: nhận chân cái ngã chân thật bất diệt, thường hằng là người cầm cương dẫn dắt năm con ngựa tức ngũ uẩn đi đúng đường vượt qua những đoạn đường quanh co khúc khủy, mở đường khám phá cả thế giới chân trời mới nằm đằng trước mặt, giải phóng ra khỏi những ảo tưởng, thoát khỏi sự giam hãm do dục vọng tạo ra, chữa trị căn bệnh u mê, tăm tối đạt đến cảnh giới tự do tự tại.
 
Nói chung con người phiền não, đau khổ, thất vọng, chán chường, bất an, trống rỗng là vì có khuynh hướng hướng ngoại, phân biệt ta và người, hằng ngày nhìn trong gương thấy ta khác người, nhìn cái giả cho là thật. 

Ngay chính thân xác của chúng ta thay đổi từng giây từng phút, mỗi khoảnh khắc là hằng triệu tế bào chết đi, đào thải và hằng triệu tế bào mới sinh sản ngay trong cơ thể. Vì thế cần phải đẩy lui những phiền não, không thật ra ngoài để thăng hoa trở nên an vui thanh thản hạnh phúc trở về với chân ngã, là những cái nằm bên trong con người chứ không ở đâu khác.  
Khi con người rơi vào tình trạng u mê, vô minh, vọng động thì Phật giáo đề xuất phương cách giải quyết là quán tưởng cái lý vô thường của vạn vật, có nghĩa không quá đam mê và chấp trước hay bám víu vào nó. Vì mọi vật đều theo lý nhân duyên, nhân quả mà kết hợp thành và rồi cũng theo đó mà tan đi giống như cát bụi trở về cát bụi. Mọi hiện tượng xuất hiện trên thế gian này ngày hôm nay rồi sẽ biến mất đi nay mai, không một sự vật nào tồn tại mãi mãi. Vậy tại sao chúng ta bám víu vào nó để rối đau khổ và sinh bệnh. Một vị cao tăng đời nhà Minh bên Trung Quốc, Hàn Sơn Thập Đắc đã nói: “Không một ai sinh ra trên cõi đời này để già, bệnh và chết thay cho bạn. Những đau khổ này chính bạn phải nhận lấy. Mọi đắng cay ngọt bùi của cuộc đời phải tự chính bạn trải qua mà thôi.” Do đó tự mỗi người phải tự chính mình tỉnh thức, hiểu rõ căn nguyên sự vật để làm sao sống một đời sống không ốm đau bệnh tật.

Từ cổ chí kim, Đông cũng như Tây không một ai phủ nhận sức mạnh tinh thần trong việc chinh phục bệnh tật, duy trì sức khỏe, thăng hoa đời sống nội tâm và thành công trong cuộc đời. Người phương Tây thường hay nói “Bạn nghĩ gì bạn sẽ là như thế” (As you think, you become), nói lên sức mạnh vô song của tinh thần. Với sức mạnh gì Armstrong vô địch liên tục sáu lần đoạt giải quán quân huy chương vàng vòng đua xe đạp Tour de France song song với đó đã phải khắc phục, chiến thắng căn bệnh ung thư hằng ngày công phá cơ thể anh. Với đức tin nào mà những nhà sư chỉ với manh áo thô sơ có thể chịu đựng cái lạnh như cắt ở vùng núi Hy Mã Lạp Sơn quanh năm tuyết phủ. Với ý chí nào đã giúp con người Abraham Lincoln vượt qua bao chông gai thử thách cuộc đời xuất thân trong gia đình nghèo, mẹ mất sớm, không có tiền đi học phải làm đủ mọi nghề để mưu sinh, vừa làm vừa học, có lúc rơi vào cảnh tuyệt vọng, gia tài khánh tận. Cuối cùng với niềm tin sắt đá vào lý tưởng ông đã đắc cử trở thành vị Tổng Thống thứ 16 của Hợp Chủng Quốc, người đầu tiên tuyên bố giải phóng nô lệ, dù sau bao nhiêu lần thất bại trong những cuộc tranh cử vào tòa nhà Quốc Hội. Niềm tin, tinh thần lạc quan đóng vai trò không nhỏ trong đời sống.

Nếu khi chúng ta nhận biết và hiểu rõ lý vô thường của sự vật, về ngay chính con người mình với những thói hư, tật xấu cần phải thay đổi, những biến hóa thay đổi liên tục không ngừng từ thể xác cho đến tâm hồn, phân biệt được cái ta tạm thời và cái ta vĩnh cửu, bất diệt và những nỗi đau khổ không thể tránh được trên cuộc đời này với tâm bình thản là khi chúng ta đã có được liều thuốc thần dược, niềm hạnh phúc bất tận. Khi ấy chúng ta có khả năng điều chỉnh những nỗi cảm xúc, dằn nén cơn nóng giận, biết tha thứ cho tha nhân, tâm hồn trở nên trong sáng, tăng sức mạnh nội tâm, nguồn năng lực sống, có cái nhìn lạc quan, tin tưởng về cuộc đời. Khi ấy chúng ta biết cách giải quyết một cách ổn thỏa những dao động và từ đó cơn bệnh cũng sẽ giảm từ từ. Một người thực sự khỏe mạnh là người tràn ngập sức sống, năng động, yêu đời, yêu người và cũng từ đó toát ra một vẻ đẹp tự nhiên qua khuôn mặt, làn da và cả nụ cười.

“Thân Tâm Nhất Như” tâm hồn và thể xác tuy hai mà một là tư tưởng trị liệu căn bệnh toàn diện hữu hiệu, là chiếc xe, đôi cánh đưa con người đến chân trời hạnh phúc, trường thọ thiếu một trong hai thứ trên không thể nào đạt được điều mong muốn. Tâm hồn là cái trường cửu mãi mãi cần phải đi đôi với cái “đại ngã” chứ không phải cái tôi nhỏ bé. Có nghĩa để cho “Tâm” đạt đến cảnh giới bất tử chúng ta cần phải thăng hoa cái “Thân” nhỏ bé như hạt cát trong biển cả vào cảnh giới thanh văn, bồ tát, khai mở tiềm lực vô hạn nằm sâu trong tiềm thức, vượt qua những ảo tưởng, dục vọng thế gian, và những trạng thái bất an, lo lắng, sợ hãi từ từ biến mất không còn nữa.
 
Một khi chúng ta áp dụng những nguyên tắc chữa trị y học theo Phật giáo thì lòng tham sẽ thay thế bằng tâm bố thí, giận dữ thay thế bằng tình thương, u mê thay thế bằng trí tuệ. Khi ấy mọi bệnh tật sẽ tiêu tan thay vào đó là sức khỏe. Khi chúng ta có được tâm hồn bình thản trong mọi trạng huống, có nghĩa những độc hại đã bị đẩy lui ra khỏi tâm trí và thân thể là khi ấy chúng ta có được sự hòa hợp giữa thân và tâm, và bệnh tật không còn nữa. Nói cách khác chúng ta có dũng cảm thay đổi cách sống, lối nhìn về cuộc đời với con mắt tích cực, yêu thương tha thứ, năng vận động thân thể, thay đổi cách dinh dưỡng ẩm thực toàn diện. Đây chính là cuộc cách mạng bản thân, và cũng theo đó mọi tế bào xấu, ung thối, chất độc sẽ từ từ bị đào thải ra ngoài cơ thể, và một thân thể kiện khang, một tâm hồn trong sáng, lành mạnh sẽ thành hình.

Lý tưởng của Y học đã được minh chứng qua lời tuyên thệ Hippocratic từ 2500 năm qua là tôn trọng sự sống, phục vụ lợi ích sức khỏe con người chứ không vì tư lợi, không dùng con người như vật thí nghiệm Tinh thần này nói lên phần nào tư tưởng Phật giáo, mục đích tu tập theo Phật giáo là để có sức khỏe trở thành Kim Cương Thân vì
“Sức khỏe không chỉ là trạng thái không yếu đuối hay không bệnh tật mà còn là niềm hạnh phúc trọn vẹn mang tính chất xã hội bao gồm tinh thần lẫn vật chất”.

Tùng Sơn.
Nguồn: blog anhvutran1963

Bài viết khác:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *